top of page
Search
vnfilmclub

Vẫn Một Ngọn Cờ

Updated: Mar 10, 2021

Vẫn Một Ngọn Cờ

Trịnh Bình An






Lòng yêu nước bắt đầu từ đâu?

Thỉnh thoảng tôi hỏi chính mình. Mỗi khi đọc tin về những con người dấn thân hy sinh cho đất nước, tôi thấy mình lại phải đối diện với câu hỏi: Thật ra, lòng yêu nước bắt đầu từ đâu?


Rất nhiều năm, tôi đi trong màn sương mù lờ mờ ấy với các cảm xúc khi chớp khi tắt về điều ấy. Cho đến khi tôi được xem bộ phim tài liệu Hồn Việt Quốc Kỳ Quốc Ca Việt Nam. Xem hết bộ phim mới thấy tiềm tàng trong đó tình yêu đất nước đích thực của những người đã hy sinh mạng sống để bảo vệ ngọn cờ Dân Tộc.


Tôi may mắn có cơ hội gặp gỡ những anh chị trực tiếp thực hiện bộ phim Hồn Việt. Mỗi người mỗi câu chuyện khác nhau, nhưng dường như đều có chung một điều: dù ở đâu, làm gì, họ luôn canh cánh bên lòng một mối ưu tư về vận mệnh đất nước. Rồi một cơ duyên kỳ lạ đã đưa họ tới với nhau để cùng thực hiện bộ phim Hồn Việt.


Nhờ những anh chị ấy, tôi thấy ra một điều: lòng yêu nước quả có thật!


Có thể ví lòng yêu nước như một thứ cây, bắt đầu từ một hạt giống và sẽ nảy mầm nếu đủ điều kiện. Nhưng cái cây sẽ chết yểu hay lớn mạnh còn tùy thuộc vào việc có được chăm sóc kỹ lưỡng hay không.


Bài viết này xin được coi như cố gắng của một người muốn có một cái nhìn thấu đáo hơn bằng cách đặt câu hỏi với những người đi trước. Tuy những câu hỏi chỉ giới hạn trong bộ phim, nhưng vẫn hướng về một tình cảm rộng rãi hơn - tình yêu quê hương.


Phim Hồn Việt có được là nhờ vào sự đóng góp công sức của rất nhiều người, cả người Việt Nam lẫn người ngoại quốc. Tuy nhiên, các câu hỏi sẽ được dành cho bốn người có vai trò quan trọng nhất trong việc thực hiện: Cựu Đại Tá Phạm Bá Hoa, Nhạc Sĩ Lê Văn Khoa, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích và ông Chu Lynh.


Phạm Bá Hoa


Cựu Đại Tá Quân Lực VNCH, là tác giả của những hồi ký chính trị: Đôi Dòng Ghi Nhớ: hồi ký chính trị VNCH 1963-1975, Ký Sự Trong Tù, Tôi Là Một HO, Quê Hương & Quân Ngũ, Việt Nam 2001-2006. Ông đã viết Trận Chiến Dựng Lại Quốc Kỳ (2004) liệt kê các thành phố, tiểu bang Hoa Kỳ đã chính thức công nhận và vinh danh Quốc Kỳ VNCH là Lá Cờ Tự Do và Di Sản - Heritage and Freedom Flag của cộng đồng người Việt. Ông cũng là người viết kịch bản cho phim Hồn Việt.


Trịnh Bình An (TBA): Ông đã bỏ công sưu tập lịch sử Quốc Kỳ và thành lập một trang báo điện tử lưu trữ những tài liệu liên quan đến Quốc Kỳ tại hải ngoại. Ông có thể cho biết nhờ đâu mà “trận chiến dựng lại quốc kỳ” đã thắng trận vẻ vang như thế?


Phạm Bá Hoa: Đầu tiên là Nghị Quyết số 3750 ngày 19/2/2003, thành phố Westminster chánh thức công nhận quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ của Cộng Động Việt Nam tị nạn cộng sản. Sự khởi đầu nào cũng có những khó khăn, nhưng với sự vận động từ âm thầm đến công khai, và cuối cùng là thành công rực rỡ. Thành phố thứ nhì là Garden Grove công nhận ngày 11/3/2003 với Nghị Quyết số 8486-03. Hai thành công trên đây được phổ biến rộng rãi trên internet, giúp Cộng Đồng chúng ta tại nhiều địa phương nỗ lực vận động với cơ quan dân cử. Chỉ 5 tháng sau, Louisiana là tiểu bang đầu tiên công nhận ngày 15/7/2003 bằng Luật số 839. Tính đến ngày 4/12/2014, có 134 cơ quan hành chánh Hoa Kỳ công nhận quốc kỳ chúng ta, gồm: 18 tiểu bang, 8 Quận hạt, và 108 thành phố.


Sau khi hai thành phố đầu tiên công nhận, tôi tiếp tay phổ biến và cổ vũ cho công cuộc này. Tôi cho rằng, đấy là một trong hai trận chiến mà Cộng Đồng tị nạn cộng sản chúng ta đang chiến đấu. Trận Chiến Nhân Quyền đang diễn tiến, trong khi Trận Chiến Dựng Lại Quốc Kỳ vừa mới bắt đầu nhưng khí thế mạnh hơn. Với tôi, sự thành công có thể nói là ngoạn mục này bắt nguồn từ tinh thần trách nhiệm của mỗi công dân đối với quê hương Việt Nam, dẫn đến tinh thần tự phát đấu tranh dù sống xa quê hương đến nửa vòng trái đất. Mỗi khi nhìn thấy lá Quốc Kỳ tung bay trong gió - tôi nghĩ - không ai nén được sự xúc động mạnh mẽ từ sâu thẳm tâm hồn, bởi đó là biểu tượng của Hồn Thiêng Sông Núi, của Dân Chủ Tự Do.


TBA: Là một người cựu tù nhân từng chịu nhiều năm sống trong các trại tù cộng sản, có khi nào ông nghĩ tới ngọn cờ vàng, và lúc đó ông cảm nhận thế nào về câu hát “dù cho thây phơi trên gươm giáo” trong Quốc Ca VNCH?


Phạm Bá Hoa: Ngày 2/9/1975, khi bị giam tại trại tập trung Long Giao (tình Long Khánh), họ bắt chúng tôi dự lễ chào cờ ngày quốc khánh của họ. Khi họ hát câu “thề phanh thây uống máu quân thù..” tôi liền so sánh với câu trong Quốc Ca VNCH “dù cho thây phơi trên gươm giáo, thù nước lấy máu đào đem báo...”, nhận thấy sự tàn bạo của họ ngay trong lời hát.


Bài quốc ca của chúng ta tiêu biểu ý chí của người công dân hy sinh vì tổ quốc, trong khi cộng sản buộc công dân của họ phải mổ bụng và uống máu của quân thù. Tàn bạo quá! Ghê tởm quá! Cộng Sản Việt Nam chiến đấu không vì con người, mà họ chiến đấu theo lệnh của Cộng Sản Quốc Tế, mà cộng sản quốc tế có tham vọng thống trị toàn thế giới, và tất cả chỉ biết tuân lệnh họ. Nói cách khác, lãnh đạo cộng sản quốc tế là chủ, cả nhân loại chỉ là những bầy thú vật không hơn không kém.


Hiện nay, hầu hết báo giấy cũng như báo online cho rằng, Nhà nước Hồi Giáo ISIS là tàn bạo. Tôi cho rằng nhà nước Hồi Giáo đúng là rất dã man, nhưng các chế độ cộng sản còn dã man tàn bạo hơn nhiều, mà Cộng Sản Việt Nam là trường hợp điển hình. Trong những năm 1945-1946, chỉ riêng tại Nha Mân tỉnh Sa Đéc, lúc đó tôi 15-16 tuổi, làm thư ký cho đại đội trưởng du kích xã, người này hoàn toàn mù chữ. Đại đội có hai trạm gác dọc theo sông Nha Mân, khám xét tất cả người ngoài xã và các ghe xuồng qua lại. Hễ nhìn thấy ba màu xanh trắng đỏ (màu của quốc kỳ Pháp) dù rải rác bất cứ trên áo quần hay đồ vật mà họ thấy được, lập tức họ trói ngay người có vật ấy lại. Ngay đêm đó hoặc đêm hôm sau, những con người này bị giết chết, xác liệng xuống sông hoặc cột vào dọc cây tre rồi thả trôi sông. Trong thời gian dài, người dân hai bên sông không dám ăn tôm tép vì loại này háu ăn thịt người chết. Ghê tởm quá!

Đầu năm 1947, tôi trốn lên Sài Gòn…


Lê Văn Khoa:


Hơn 60 năm phục vụ nghệ thuật và giáo dục, nhạc sĩ / nhiếp ảnh gia Lê Văn Khoa đã làm việc với nhiệt tâm và tận tụy hiếm có. Ông đã dấn thân vào sáng tác nhạc giao hưởng với nguyện vọng đưa âm nhạc Việt Nam giới thiệu ra thế giới. Ông là người soạn hòa âm và phối khí cho Quốc Thiều VNCH và thu xếp việc trình diễn với ban nhạc Ukraine. Đây là một phần quan trọng cho đoạn kết của phim Hồn Việt.


TBA: Được biết Quốc Ca VNCH đã được trình diễn tại Ukraine năm 2012. Xin ông cho biết ai là người đã khởi xướng việc này?

Lê Văn Khoa: Anh Chu Lynh, hay nói rộng ra là anh em trong nhóm thực hiện phim Hồn Việt: Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam.


TBA: Ông đã trình diễn bản Quốc Ca VNCH tại những nơi nào khác nữa? Nếu so sánh với buổi trình diễn tại Ukraine thì có gì khác biệt?


Lê Văn Khoa: Quốc Ca VNCH đã trình diễn nhiều lần ở California từ năm 1982, ở Texas, Washington D.C. và ở Úc. Chúng tôi dùng bài Quốc Thiều Việt Nam Cộng Hòa làm lễ chào quốc kỳ trước khi bắt đầu chương trình âm nhạc ở các nơi này. Quốc Thiều đã được tôi soạn cho dàn nhạc giao hưởng (symphony orchestra). Hai ban nhạc diễn hành của trường trung học La Quinta và Bolsa Grande đã trình diễn trên mẫu hạm Midway nhân ngày kỷ niệm 30 tháng Tư năm 2010. Cùng năm đó Kyiv Symphony Orchestra trình diễn ở Washinton D.C. Nhưng ở Ukraine thì khác, vì là ban quân nhạc chính thống, nên âm thanh và hào khí có khác nhau.


TBA: Tại sao chọn ban quân nhạc?


Lê Văn Khoa: Nhiều người Việt Nam khắp nơi khi nghe bài Quốc Thiều trong phim Hồn Việt đã rơi lệ, nhưng ít ai biết những tình tiết bên trong của việc thực hiện. Tôi xin kể lại sơ lược như sau.

Khi anh Chu Lynh gọi điện thoại đề nghị tôi việc thực hiện bài Quốc Thiều, có lẽ anh chưa có ý niệm rõ rệt về cách trình diễn của các ban nhạc. Nó không đơn giản như mình đi nghe nhạc trong phòng trà. Hơn nữa, đây là bản Quốc Thiều Việt Nam Cộng Hòa! Tôi hỏi anh: “Anh muốn trình diễn với dàn nhạc giao hưởng hay ban quân nhạc?”

Tôi nghĩ bất cứ người nào gặp câu hỏi này cũng ngập ngừng với nhiều đắn đo. Cá nhân tôi cũng nghĩ tới các khó khăn nên mới hỏi câu đó. Một mặt, tôi muốn anh chọn dàn nhạc giao hưởng vì nhạc tôi có sẵn, liên hệ cũng có sẵn vì tôi có mối giao tình tốt đẹp với giới nhạc giao hưởng Ukraine từ năm 2005. Mặt khác, tôi lại muốn anh chọn ban quân nhạc. Nhưng nếu chọn ban quân nhạc, gánh nặng tôi sẽ nhiều hơn bội phần. Sau khi cân nhắc, chúng tôi quyết định nhờ ban quân nhạc. Thời gian thực hiện khá gấp rút nên tôi dồn hết nỗ lực vào việc hòa âm, phối khí và tìm kiếm ban nhạc.


TBA: Việc tìm kiếm ban nhạc và trình diễn sau đó thế nào?


Lê Văn Khoa: Viết nhạc giao hưởng thì tôi quen hơn quân nhạc, nhưng tôi cố vận dụng sự hiểu biết của mình để làm tròn nhiệm vụ. Với ước muốn không thực tế, tôi muốn được một ban quân nhạc tầm vóc quốc gia để trình diễn quốc thiều của một quốc gia, nên đề nghị Taras Myronyuk (người giúp tôi thực hiện nhiều chuyến thu thanh ở Ukraine với Kyiv Symphony Orchestra and Chorus) thử tiếp xúc với ban nhạc của Phủ Tổng Thống Ukraine (The Ukrainian National Presidential Orchestra).


Không ngờ lời đề nghị của Taras được chấp thuận. Tôi rất mừng nhưng cũng rất lo sẽ bị phe cộng sản phá hỏng. Do đó, một mặt yêu cầu những người liên hệ giữ kín việc này, mặt khác đánh lừa sự chú ý của phe muốn phá, nên cùng lúc tôi thực hiện một chuyến thu thanh với dàn nhạc của Hội Hiếu Nhạc Kyiv (Kyiv Philharmonic Orchestra). Việc lo xa của tôi không phải là thừa! Ngay buổi chiều trước ngày trình diễn, Taras báo cho tôi biết ban nhạc có ý muốn hủy bỏ buổi trình diễn. Họ không nêu rõ lý do nhưng có đề cập đến bài Quốc Thiều của mình. Tôi linh cảm có bàn tay thọc gậy. Không thể để thất bại, tôi liền nhờ Taras “đi đêm” (cả nghĩa trắng và đen). Đêm đó Taras về rất trễ. Khi về anh ấy chỉ nói nhỏ với tôi hai chữ “xong rồi.”


TBA: Là nhạc sĩ soạn hòa âm, phối khí Quốc Thiều VNCH cho ban nhạc giao hưởng, ông thấy bản nhạc ấy có thật chuyển tải được Hồn Việt?


Lê Văn Khoa: Về bài quốc ca, tôi có vài ý nghĩ rất nhỏ. Quốc ca của bất kỳ nước nào trên thế giới, nguyên thủy nó chỉ là một bài hát, có thể hào hùng, có thể nghiêm trang, có thể bi ai. Khi bài hát ấy được chọn làm quốc ca, người ta ban cho nó cái hồn thiêng của dân tộc. Bài Tiếng Gọi Sinh Viên của Lưu Hữu Phước được ban cho Hồn Việt ngay lúc được chọn làm bài Quốc Ca VNCH. Từ đó nó trở thành biểu tượng bằng âm thanh của người Việt tự do. Khi viết hòa âm cho bài Quốc Ca, tôi thêm âm thanh vào giai điệu đơn như người ta tô màu cho bức tranh trắng đen. Tôi dùng âm thanh để chuyển tải những yêu thương, trân quý, nêu những nét hòa nhã lẫn hào hùng của dân tộc đến người nghe.


Tuy nhiên âm nhạc là môn nghệ thuật trừu tượng nên không phải ai cũng có nhận thức giống nhau. Hơn nữa, người nghe quốc ca hay quốc thiều mà xúc động hay thờ ơ, theo tôi, còn tùy lòng yêu thương đất nước của người đó tới mức độ nào. Ta nghe bài Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa, sự xúc động dâng lên ngút ngàn. Những gắn bó với quê hương, nhất là quê hương không còn ở trong tầm với, đã làm cho ta tức tưởi, quặn thắt tâm hồn. Có người yêu quê hương, sẵn sàng chết để bảo vệ quê hương mình. Cùng lúc đó có người đem bán đất nước để mưu cầu lợi riêng, vì họ không có tình, không có hồn đối với quê hương họ.


Hồn Việt chỉ có trong lòng người yêu nước Việt.

Quốc Ca, Quốc Thiều chỉ có thể khơi dậy tình yêu quê hương khi con người thực lòng yêu quê hương.


Nguyễn Ngọc Bích:


Từng là giáo sư tại nhiều đại học Hoa Kỳ và Tổng Giám đốc Giáo Dục Song Ngữ trên toàn Hoa Kỳ (1991-1993). Ngoài dạy học và làm truyền thông, ông còn là một nhà biên khảo và dịch giả có uy tín về văn thơ VN. Là tác giả của khoảng 40 cuốn sách nhiều thể loại, và có mặt trong gần 50 tập thơ và sách giáo khoa. Ông cũng là producer cho phim Hồn Việt.


TBA: Ông từng giữ chức vụ Giám Đốc Ban Việt Ngữ Đài Á Châu Tự Do (RFA),với kinh nghiệm lâu năm trong ngành truyền thông, ông đánh giá thế nào về khả năng phổ biến rộng rãi của phim “Hồn Việt” với những thế hệ trẻ trong khi họ không lớn lên dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa?


Nguyễn Ngọc Bích: Có người cho cái cờ chỉ là một biểu tượng. Đúng! Nhưng tôi tuyệt đối không khuyên ai nên coi nhẹ một biểu tượng như lá cờ của một quốc gia. Cộng Hòa Pháp tính đến nay đã là nền Đệ Ngũ Cộng Hòa (Cinquième République), tại sao lá cờ “tam tài” xanh trắng đỏ của Pháp vẫn chỉ là một lá cờ từ năm 1789 đến giờ? Lá cờ, hay đúng hơn là chữ “màu cờ,” định nghĩa chúng ta là ai. Nó hiển nhiên không thể chỉ là một miếng vải với các màu sắc trên đó. Nó đánh động đến một cái gì thật là sâu thẳm ở trong ta.


Trước nhất, khi có ai hỏi: Màu vàng và ba gạch đỏ nghĩa là gì, chúng ta không thể bảo là nó vô nghĩa được. Chúng ta cần phải tìm hiểu, và tìm rồi, sẽ có người nói: màu vàng là màu đất và màu đỏ là màu máu, ba vạch là ba miền Trung-Nam-Bắc, dòng máu của ba miền đi song song, hòa hợp trên mảnh đất của cha ông. Đó có thể là một câu trả lời khá ý nghĩa. Song cũng có thể có người trả lời chi tiết hơn: Ba vạch liền là quẻ “càn” trong Kinh Dịch, tức tượng trưng cho Trời. Mà Trời trên nền vàng thì rõ ràng là “Trời Nam”, một tên gọi của nước ta có từ thời nhà Lê thế kỷ XV (“Thiên Nam” như trong Thiên Nam Dư Hạ Tập hay Thiên Nam Ngữ Lục). Màu vàng còn là màu cờ truyền thống của Việt Nam, có ít nhất từ đời Hai Bà Trưng (40-43 theo Công Nguyên). Đến đời Bà Triệu cũng “đầu voi phất ngọn cờ vàng” (Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca). Rồi đến thời Lê Lợi với khởi nghĩa Lam Sơn, chúng ta vẫn còn bài hát: “Nước non Lam Sơn, nước non Lam Sơn. Bóng cờ bay phấp phới! Khắp nơi cờ vàng, khắp nơi cờ vàng. Muôn hồn quân Nam!” (*)


Như vậy, Hồn Việt đi với Cờ Vàng đã không phải chỉ có từ thời Bảo Đại, hay từ thời Thành Thái, như một vài người chủ trương, mà nó bàng bạc trong tiềm thức của dân ta từ cả hai ngàn năm nay rồi. Một sự gắn bó như vậy gần như trong cốt tủy, trong xương máu của chúng ta rồi.


Lá cờ với một lịch sử hàng ngàn năm như vậy tự nó đã có giá trị trường tồn của nó. Phim Hồn Việt của Vietnam Film Club chỉ là tiếp nối vào một câu chuyện mà không gì hủy được. Tuổi trẻ Việt Nam sau này, dù không sống một ngày nào với chế độ Việt Nam Cộng Hòa, sẽ thắc mắc về nó, và một khi tìm hiểu ra rồi thì sẽ yêu thương nó thôi. Đó là trường hợp một Lê Trung Thành, một Nguyễn Phương Uyên, một Đặng Chí Hùng,… dù các em đó được sinh ra nhiều năm sau 1975, trong một môi trường được học tập để ghét bỏ nó. (**)


TBA: Ông cũng là người sáng lập Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ với nhiều cuốn sách có đóng góp lớn vào nền văn học người Việt hải ngoại, trong đó có bộ lịch sử “Nhìn Lại Sử Việt” 5 Tập của Lê Mạnh Hùng. Ông có nghĩ rằng tới một lúc nào đó, trong những bộ sách lịch sử VN, sẽ cần một chương dành riêng cho Quốc Kỳ và Quốc Ca VNCH?


Nguyễn Ngọc Bích: Theo tôi nghĩ, một chương sách dành riêng cho quốc kỳ và quốc ca có lẽ nên nằm trong chương trình công dân giáo dục của nước đó thì hơn. Chứ riêng lịch sử thì phải khách quan và nói đến lá quốc kỳ qua nhiều giai đoạn khác nhau, thậm chí có lúc đối nghịch nhau, như khi đất nước bị chia đôi thì có hai lá cờ khác nhau, hai bài quốc ca khác nhau. Chưa nói đến cái khôi hài của người Cộng Sản mà có lúc, như vào tháng 8 năm 1975, họ xin vào Liên Hiệp Quốc dưới danh nghĩa hai nước CS Việt Nam, một ở miền Bắc (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) và một ở miền Nam (Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam), với hai lá cờ khác nhau và hai bài quốc ca khác nhau. Nghĩa là chính họ sẵn sàng duy trì sự xẻ đôi đất nước, cốt chỉ nhắm được hai phiếu cho khối Cộng Sản ở LHQ. Và tới ngày nào chúng ta có một cuốn công dân giáo dục mới thì chúng ta đã có sẵn tài liệu do giáo sư Nguyễn Ngọc Huy sưu tầm và viết mang tên Tiến Trình Hình Thành Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam.


Chu Lynh:


Là một cựu sĩ quan Quân Lực VNCH, đã từng đi tù qua 15 trại tập trung của cộng sản. Ông là editor cho các cuốn phim: Di Sản Nguyễn Ngọc Huy, A Fighter for Democracy in Vietnam, Sự Thật về Hồ Chí Minh, Ho Chi Minh the Man and the Myth, Đại Họa Mất Nước, Hồn Việt, The Soul of Vietnam, và gần đây là các phim tài liệu trên Youtube của Vietnam Film Club, và trong năm 2015 sẽ là bộ phim Thảm Họa Bắc Thuộc hiện đang trong giai đoạn hoàn tất.


TBA: Điều gì đã khiến Vietnam Film Club khởi sự cuốn phim đầu tiên với đề tài về Quốc Kỳ Quốc Ca Việt Nam?


Chu Lynh: Năm 2003, tôi có về Việt Nam và ghé thăm nghĩa trang Quân Đội Biên Hoà. Tôi không có tin tức chính xác về tình trạng nghĩa trang nên khi vào đã bị bộ đội canh giữ làm khó dễ. Nhưng cuối cùng tôi cũng đã tìm cách chụp hình và quay phim mà họ không biết được. Thời điểm đó, nghĩa trang là một cảnh tượng hoang phế và bị tàn phá khắp nơi, một sự tàn phá có chủ đích mang tính thù hận. Điển hình là trên ngôi mộ của một người lính, nơi sơn lá cờ vàng đã bị đục nát. Hình ảnh đó đi vào tâm trí tôi khi trở lại Hoa Kỳ.


Đúng 10 năm sau, ngay sau khi vận động thành lập được Vietnam Film Club, thì đề tài về Quốc Kỳ Quốc Ca Việt Nam được các thành viên hưởng ứng cho cuốn phim đầu tiên của tổ chức. Với tôi, cuốn phim Hồn Việt ra đời không phải là chuyện tình cờ. Có một tương quan nào đó thật khó hiểu, như một trợ lực vô hình theo sát và giúp đỡ chúng tôi suốt chặng đường thực hiện khá gian nan.


TBA: Xin ông cho biết đôi nét về Vietnam Film Club: nhân sự điều hành, vấn đề tài chánh, và nhất là phương hướng hoạt động?


Chu Lynh: Chúng tôi không phải là một tổ chức được đào tạo chuyên nghiệp hay được tài trợ chi phí chính thức. Cho tới nay, Vietnam Film Club chưa kêu gọi đóng góp tài chánh trong cộng đồng hải ngoại, cũng chưa tổ chức gây quỹ. Tất cả thành viên đều tự nguyện và tự túc về mọi phương diện. Về nhân sự, chúng tôi có một số thành viên cốt cán. Tuy nhiên, chúng tôi quan tâm đến việc thiết lập một sự liên kết như một mạng lưới với những nhân vật trong cộng đồng Việt Nam khắp nơi, để được hỗ trợ về tài liệu, phương tiện di chuyển, giới thiệu phỏng vấn các nhân chứng, các nhà nghiên cứu, hay tổ chức các buổi ra mắt phim tại địa phương.


Như thế, mặc nhiên cuốn phim sau khi hoàn tất là tổng hợp của những đóng góp từ nhiều người trong cộng đồng người Việt hải ngoại và cả người trong nước. Khi thực hiện các phim tài liệu, chúng tôi nhắm vào đối tượng trong nước, những người đã bị chế độ cộng sản bưng bít sự thật lịch sử hơn nửa thế kỷ nay.


TBA: Là editor cho Vietnam Film Club, điều gì đã thôi thúc ông đi cho đến bước cuối cùng của cuốn phim?


Chu Lynh: Khi về thăm nghĩa trang Biên Hoà, nhìn hàng chục ngàn ngôi mộ hoang phế trong một khung cảnh rộng lớn, không ai không thấy quặn lòng. Tình đồng đội, sự hy sinh của những người lính. Xin mượn lời nhà văn Huy Phương đã viết trên blog của anh sau khi xem cuốn phim Hồn Việt: “Họ đã chết cho mình được sống. Họ bị tàn phế để mình được lành lặn. Họ ở lại trong đau khổ và đói khát để mình được ra đi sống sung túc nơi xứ người”. Chúng ta mang món nợ lớn với họ, và nhất là món nợ với đất nước. Việc làm này có thấm vào đâu so với sự hy sinh máu đào của những người lính đã nằm xuống trong cuộc chiến tranh vừa qua.


TBA: Theo ông, thông điệp chính của phim Hồn Việt gởi đến người xem là gì?


Chu Lynh: Những gì đã thuộc về lịch sử phải được tôn trọng. Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam được hình thành từ trong lịch sử xa xưa, nhờ công lao của tiền nhân, nhờ những người đã nằm xuống để bảo vệ đất nước. Không thể chối bỏ lịch sử, để vay mượn một lá cờ của ngoại bang làm Quốc Kỳ hay sáng tác một bản nhạc sắt máu làm bản Quốc Ca cho đất nước Việt Nam như cộng sản đã làm. Vừa nhục mạ tồ tiên, vừa phản bội quê hương. Đó là những gì mà phim Hồn Việt mong được gởi đến mọi người.


TBA: Riêng với cá nhân ông, sau khi phim Hồn Việt hoàn tất, được phổ biến rộng rãi với kết quả rất đáng mừng, thì điều gì còn đọng lại trong ông?


Chu Lynh: Phim Hồn Việt sau khi ra mắt, đã được đón nhận nồng nhiệt như một hiện tượng hiếm có trong cộng đồng người Việt hải ngoại và cả trong nước, thể hiện qua các email, điện thoại, các nhận xét trên trang YouTube, và các bài viết trên internet. Đặc biệt, khá nhiều người đã khóc khi nhìn lá Cờ Vàng trong phim mà cứ tưởng đã chết theo số phận của VNCH sau năm 1975, nay lại tung bay khắp thế giới. Tôi hy vọng, phim Hồn Việt đã đốt nóng ngọn lửa tình tự quê hương trong tim họ và ít nhiều đã thắp sáng lịch sử khi trưng dẫn những tài liệu và nhân chứng lịch sử quý giá.


Điều còn lại trong tôi sau cuộc bể dâu của dân tộc? Đó là niềm lạc quan về tuổi trẻ Việt Nam. Với kiến thức và lương tri, biết dựa vào những bài học của quá khứ, tuổi trẻ Việt Nam sẽ biết cách kiến tạo một tương lai tốt đẹp cho đất nước.


40 Năm - Vẫn Một Ngọn Cờ


Phạm Bá Hoa, Lê Văn Khoa, Nguyễn Ngọc Bích và Chu Lynh, bốn người, bốn góc độ khác nhau nhưng cùng hướng về Lá Cờ Vàng. Nguyên do nào đã thúc đẩy cả bốn người cùng quyết tâm thực hiện cho bằng được bộ phim về Quốc Kỳ-Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa?

Do lòng yêu nước thôi thúc, hay do Hồn Việt trong họ đã lên tiếng?


Riêng với tôi, một người lớn lên sau cuộc chiến rồi trôi dạt đến xứ người, những câu chuyện của họ là những đốm sáng chỉ đường trên con đường đi tìm về cội nguồn dân tộc. Tôi biết mình sẽ chẳng bao giờ hiểu hết tâm tư của những người đi trước, nhưng từ đây, mỗi khi hướng về Lá Cờ Vàng tôi thấy ở đó những cố gắng không ngừng của những người con đất Việt: Suốt 40 năm, họ đã chung tay giữ vững một Ngọn Cờ, giữ vững một tinh thần Tự Do, giữ vững một nền đạo đức truyền thống, và hơn hết, giữ vững một Tâm Hồn Việt Nam.


Phụ Chú:

(*) Ca khúc “Nước Non Lam Sơn” của nhạc sĩ Hoàng Quý (1920 - 1946).

(**) Sinh viên Lê Trung Thành trong một bài viết năm 2008, sau khi đã tìm hiểu cội nguồn của Quốc Kỳ VNCH đã kết luận: “…đó đã từng là một Quốc Kỳ của nhiều chế độ trước đó, đồng thời mang đầy đủ nguyện vọng dành độc lập, ý thức chống giặc ngoại xâm và yêu chuộng tự do của cả một dân tộc.”


Uyên sử dụng giấy trắng A4, dùng bút sáp màu và màu đỏ tô thành lá cờ; phía dưới lá cờ có ghi chú thích bằng bút sáp màu đen dòng chữ: “1890 – 1920: Đại Nam quốc kỳ từ thời vua Thành Thái tới vua Khải Định; 1948 – 1975: Cờ quốc gia Việt Nam” (trích “Bài bào chữa của luật sư Hà Huy Sơn cho Nguyễn Phương Uyên 16/5/2013”)


Đặng Chí Hùng – một người trẻ dấn thân đấu tranh, đã phát biểu về Lá Cờ Vàng: “Lá cờ vàng ba sọc đỏ chính là lá cờ của Việt Nam Tự Do, đó không phải là của riêng một chế độ hay của riêng một chính phủ nào mà là của chung cho cả dân tộc Việt. Lá Cờ Việt Nam Tự Do là linh hồn của cả dân tộc Việt.



12 views0 comments

Comments


bottom of page